Đưa hoạt động phòng chống KST về tận cơ sở, về cộng đồng :
Ngoài những chuyên ngành nêu trên mang nhiều tính hàn lâm, tính labo thực nghiệm – thí nghiệm thì không thể không nhắc đến một lĩnh vực cực ký quan trọng mà GS rất quan tâm và phát triển có hiệu quả từ kháng chiến, nhất là sau năm 1954 đó là Y tế cơ sở/ Y tế công cộng/ Y tế cộng đồng. Các bệnh do KST nhất là sốt rét, giun chỉ, giun sán mạng lưới phòng chống của KST đã phát triển từ Trung ương đến tỉnh, đến huyện, đến xã đến thôn bản ấp và đến từng nhà ở tất cả các vùng dich tễ trong đó đa số là vùng rừng núi, nông thôn, trong thời bình cũng như trong thời chiến. GS đề nghị cán bộ y tế Lôi cuốn mọi người tham gia, dùng các biện pháp dân gian, đơn giản nhưng có hiệu quả để phòng bệnh( xua muỗi, phát quang bụi dậm quanh nhà, ngủ màn, ăn chin uống sôi, người dân phải uống thuốc SR trươc sự giám sát của y tế tại nhà, lấy máu xét nghiệm sốt rét tại nhà, phát thuốc sốt rét tại nhà, tại thôn bản, lấy máu xét nghiệm giun chỉ về đêm tại nhà, tại thôn xóm, v.v…
GS đã đặt chân đến rất nhiều vùng miền, nhiều thôn xóm bản làng, xa xôi, heo hút. GS đã vào các nhà dân, các chuống trâu bò, các bụi cây quanh nhà, bìa rừng, các khe suối… để bắt muỗi vớt bọ gạy; GS lội ruộng lúa nước để NC tìm nguyên nhân gây viêm da vùng trồng lúa nước(tại nông trường Rạng Đông ở Giao Thủy – Nam Định), và phát hiện ra đó lá do sán máng vịt gây nên.
Ở khía cạnh này chúng ta có thể học GS Ngữ là một thày thuốc chân đất, một tháy thuốc của dân, một thày thuốc rất Nhân văn
- Kết hợp Đông - Tây y trong ký sinh trùng:
Là một người học thời Tây, Trường tây, Y học phương Tây, thày thuốc Tây Y, nhưng GS cũng rất quan tâm áp dụng, kết hợp y dược học cổ truyền.
Hàng chục Đề cương NC về dược liệu cổ truyền chữa một số bệnh KST đã được GS viết ra để Bộ môn KST thực hiện dần khi có cơ hội. Như:
- Công trình NC điều trị bệnh Trichomonas vaginalis bằng cao lá Nhội đã được nhóm NC của GS Nguyễn Thị Minh Tâm thực hiện có kết quả và đã được đưa vào áp dụng,
- Các NC điều trị lỵ amip bằng Dược liệu: lá mơ, cỏ sữa lá nhỏ, cỏ sữa lá lớn, mộc hoa trắng, hoa hòe, … Bộ môn KST và Viện Dược liệu VN hối hợp nghiên cứu, trong đó có đề tài tốt nghiệp của BS Nguyễn Đức Ngân( nguyên chủ nhiệm Bm KST Đại học y Thái Nguyên).
- Nghiên cứu cây thanh hao hoa vàng điều trị sốt rét đã được GS Ngữ nêu lên từ trước, sau được GS Đỗ DươngThái chỉ đạo triển khai, nhóm nghiên cứu có GS.TS Nguyễn Văn Đề thực hiện( Khi đó GS Đề đang là SV nội trú KST) , BS Đề và tôi đã vào BV nhiễm Chợ Quán ngay sau ngày giải phóng miền Nam để tiếp tục nghiên cứu đề tài này..V.v…
Chúng ta học được ở GS: KST cần phải kết hợp vơi YH cổ truyền trong NC điều trị bệnh do KST.
Phần 5
GS Ngữ Một nhà kỹ thuật, một người nhiều sáng kiến, sáng chế khắc phục khó khăn để làm NC
Phương châm/ quy trình làm NCKH của GS ĐVN nói chung là:(1) Đặt ra các giả thuyết/ viết đề cương; (2) Đi tìm bằng cớ để chưng minh: Qua: Thực nghiệm, thí nghiệm, điều tra ở labo & ở cộng đồng ; (3) Kiểm định/ áp dụng thực tế/ thực địa rồi đánh giá.
Trong quy trình làm việc – NC đó GS rất coi trọng tìm bằng cớ để chứng minh, đưa ra kết luận trung thực… Vì vậy GS rất chú trọng làm thí nghiệm, thử nghiệm, rất chú ý tới điều kiện / phương tiện để làm kỹ thuật.
Chúng ta nói nhiều về Nhà khoa học Đặng Văn Ngữ, thực ra Khoa học & Kỹ thuật lống ghép làm một. Nhưng ở đây tôi muốn nhận mạnh một chút ở khía cạnh kỹ thuật, khắc phục khó khăn, tìm tòi, sáng kiến, sáng chế tạo ra công cụ NC. Nhất là trong kháng chiến chống thực dân Pháp, và trong những năm sau hòa bình được lập lại, các labo, các phòng thí nghiệm, … lạc hậu và vô cùng thiếu thốn trang bị.
Vài vi dụ về phát triển kỹ thuật và sáng chế của GS ĐVN:
- GS Ngữ chú trọng đến Mô bệnh học trong bệnh ký sinh trùng, và cấu tạo mô của KST: Tại Bộ môn KST ĐHYD HN, GS đã lập một nhóm chuyên cắt cúp( microtome) để xem thay đổi gan, tụy, tạng trong bệnh giun sán, cắt các thiết đồ ngang của giun sán để NC hình thái của chúng. Thời thuộc Pháp GS còn chú ý cả mổ xác để nghiên cứu về KST, qua đó thấy tổn thương giảI phẫu bệnh lý do ký sinh trùng. Cũng qua mổ xác GS tìm thấy sán lá nhỏ trong tụy, tìm được con giun kim đực( đó là con giun kím đực duy nhất ở miền Bắc được lưu giữ tại Bộ môn KST YHN.
- Dùng ngô, sắn và cả lương khô để điều chế môi trường nuôi cấy nấm, đó là một trong các điều kiện quyết định điều chế Penicillin thành công tại labo kháng chiến.
- GS Đặng Văn Ngữ là một nhà vi trùng học( Ông nghiên cứu rất nhiều về vi trùng ở Hà nội, ở Nhật, ở Khu 4, ở Việt Bắc…),GS Nghĩ ra phương pháp vaporisator – phun vi khuẩn bằng bơm kím nhỏ trên môi trường thay cho kỹ thuật ria cấy truyền thống nhờ vậy có được lớp vi khuẩn nhiều và đều khắp trên mặt môi trường thuận tiện cho việc thử thuốc kháng sinh.
- GS Ngữ đã dùng thủy tinh kéo thành kim thủy tinh làm tiêu bản cắm kim muỗi thay cho kim bằng kim loại hay dỉ
- Trong khi VN chưa có bộ thử tác dụng của hóa chất với côn trùng – muỗi, thử tác dụng tồn lưu của hóa chất, GS đã thiết kế và cho làm thành công để thay thế, dụng cụ này đã được áp dụng nhiều năm.
- Để nghiên cứu tác dụng của các hóa chất, thuốc, dược liệu đối với KST (như giun đũa ) trong phòng thí nghiệm, GS đã cho làm thành công dụng cụ dùng điện ghi “cơ ký”( kimographi ) để theo rõi hoạt động của giun trong môi trường thuốc thử nghiệm thuốc.
- Để nghiên cứu hiện tượng giun đũa cuộn lại gây tắc ruột, giun đũa chu ống mật chủ, chui ống tụy…GS đã cho ra đợi một dụng cụ bằng ống thủy tinh được thiết kế thích hợp để nghiên cứu với các môi trường khác nhau, các độ pH khác nhau ở ruột,…
- Phân ngành KST y học đều biết tác giả của phg pháp XN tìm trứng giun kim ở hậu môn bằng băng dính dính mà tác giả là GS ĐVN, rất tiện dụng so với phương pháp dùng tăm bông. Phương pháp này được quốc tế thừa nhận là phương pháp ĐVN.
- Phương pháp tính mật độ ấu trùng giun chỉ trong máu,
Chúng ta đếu biết mật độ ấu trùng giun chỉ trong máu ảnh hưởng tới độ nặng nhẹ của bệnh, và nhất là môt trong các yếu tố quyết dịch tễ của bệnh, GS đã dùng buống đếm máu để tính mật độ ấu trùng . Phương pháp này được quốc tế công nhận ( Langeron) và lấy tên GS đặt cho phương pháp này.
Và còn nhiều phát kiến nữa…
Các phát kiến này đã được áp dụng có hiệu quả một thời dài tại nhiều nơi: ĐH YDược kháng chiến, Viện Penicillin, Viện Vi trùng Quân khu 4, ĐH YHN, Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng trung ương, và nhiều nơi khác…
Với trình độ cao, uyên thâm, uyên bác, nghiêm túc về nhiều lĩnh vực khoa học cơ sở và khoa học y học, được các nhà khoa học trong nước và một số nhà khoa học quốc tế: Pháp, Nhật, Mỹ, Liên xô… thừa nhận, tôi xin phép mạnh dạn nghĩ rằng : cùng với một số Nhà y học khác , GS Đặng Văn Ngữ ở tầm BÁC HỌC về y học ở Việt Nam
Qua phần trên chúng ta có thể học từ GS: sự say sưa, suy nghĩ tìm tòi, sáng tạo, khắc phục khó khăn, để làm NC, để đi tìm bằng cớ, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn
Phần 6.
GS Đặng Văn Ngữ, một nhà giáo khả kính, một nhà sư phạm rất sư phạm , một học viên tôn sư trọng đạo.
- GS Đặng Văn Ngữ - một thày giáo mẫu mực,
Mô phạm ,thị phạm từ giảng đường đến ngoài đời, từ làm việc đến sinh hoạt. Ở bất ký môi trường giảng dạy nào thì hình ảnh, tác phong, hành vi, ngôn ngữ của Nhà giáo khả kính vẫn toát lên ở GS Đặng Văn Ngữ, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công việc đào tạo( chuẩn bị bài giảng chu đáo, cẩn thận, đúng giờ, ngôn ngữ và thuật ngữ khoa học chuẩn, chú ý các kênh thông tin: chữ & hình ảnh chính xác, trang phục gọn gàng, luôn lấy phản hồi từ người học…). GS Ngữ rất chú ý đến thực hành, thực tập của học viên.
GS Đặng Văn Ngữ một người Thày ra Thày, ( cổ nhân nói: Thày phải hơn trò ít nhất một cái đầu), Thày Ngữ hơn các trò nhiều , rất nhiều cái đầu...
Qua thày Ngữ học trò nếu chăm chú , quan sát và chăm học thi không chỉ học được Chữ, mà còn học được Nhân, Lễ , Nghĩa, Trí, Tín, học được phong cách và tác phong làm việc khoa học…
- GS Đặng Văn Ngữ một nhà giáo nhà khoa học rất trung thực, khách quan, dũng cảm bảo vệ lẽ phải
Một thí dụ: Chúng ta đều biết : Vào khoảng những năm trước năm 1960 học thuyết Morgan – Manden bị các nước Xã hội chủ nghĩa phản đối…GS bằng trí tuệ và thực tiễn của mình Ông không nghĩ vậy. Ông không tranh luận ồn áo, nhưng tôn trọng những điều khách quan, khoa học…của học thuyết này, Thày vấn đàng hoàng giảng giải học thuyết này cho sinh viên chúng tôi giữa trường ĐH YD Hà Nội( vào thời ấy thử hỏi mấy ai dám làm như vậy).
- GS ĐV Ngữ - một học trò tôn sư trọng đạo,” nhất tự vi sư.”
Minh chứng:
* Đặt tên muỗi: An.tonkinensis….
GS Galliard đặt tên : An. Tonkinensis, ngữ et Galliard,(BS Đặng Văn Ngữ tìm thấy con muỗi này). Nhưng “ học trò” Đặng Văn Ngữ đặt tên : An. tonkinensis Galliard et ngữ, Sau quốc tế thống nhất đặt tên: An.tonkinensis ( tên nơi tìm thấy con muỗi).
Ở đây việc đặt tên con muỗi là chuyện rất nhỏ, nhưng tôn sư trọng đạo là chuyện lớn mà chúng ta học được từ GS.Đặng Văn Ngữ, và ta cũng học được sự đàng hoàng – trọng trò của Thày Galliard.
* GS đã lấy tên thày thuốc, thầy giáo người Pháp là Lucas Champonnier tình nguyện sang dạy ở Trường ĐH Y Dược Đông Dương, được SV Việt Nam yêu quý, Thầy chết ở VN vì bệnh truyền nhiễm để đặt tên cho BV nhỏ của một nhóm BS trẻ, để bày tỏ sự tưởng nhớ và biết ơn thày của mình
( Có người không hiểu vì sao lại lấy tên một Pháp đặt tên cho BV ở VN? )
Phân 7.
GS Đặng Văn Ngữ một người làm việc rất nghiêm túc, nghiêm khắc nhưng dễ gần, tác phong bình dân – hòa đồng, sống thực tế, sinh hoạt điều độ,
- GS Ngữ người thủ trưởng gương mẫu, nghiêm khắc, độ lượng, tế nhị, hòa đồng
- GS làm việc nói chung là rất nguyên tắc, nghiêm khắc, tỷ mỷ chính xác nhưng linh hoạt trong mọi công việc khi cần thiết. Vì vậy tuy rất mệt và rất sợ nhưng ai cũng nể trọng, thích làm việc trực tiếp với thày vì học được nhiều do thày dùng phương pháp cầm tay chỉ việc nên học được, làm được.
* Về sự nghiêm khắc:
Thí dụ khi nghe tiếng ô tô của GS đến Bộ môn là chúng tôi “chạy mất dép”….về bàn đá ngồi làm việc
GS quy định: Đến Bộ môn, đến labo là phải ngồi vào bàn đá để làm việc: soi kính, làm tiêu bản, định loại muỗi, pha môi trường, XN phân , XN máu, làm thí nghiệm, cắt cúp, người nuôi giun, người thử thuốc,..
Khi Thày vắng Bộ môn, chúng tôi đôi khi tụ tập ngồi bàn gỗ, bàn nước nói chuyện tào lao…
GS Ngữ mỗi lần đến Bộ môn chủ yếu là ngồi bàn đá, đến các bàn đá nhân viên đang làm để hướng dẫn, kiểm tra,…Chúng tôi sai nhiều lắm, thày vị tha và uốn nắn. Tại Viện SR – KST – CT, GS cũng chủ yếu làm việc tại các labo, khoa - phòng thí nghiệm, chứ không ngồi ở Phòng Viện trưởng là chính
Thí dụ về dùng DDT & 666: Nhà nước quy định DDT cho Y tế, 666 cho Nông nghiệp, Thú y,…Một lần BM KST, ĐHYHN dùng DDT tại nơi sơ tán phòng chống nạn bọ chét đốt SV ở nơi sơ tán tại Thái Nguyên. Thày phát hiện ra, chúng tôi chỉ còn cách “ độn thổ” hoặc “ thăng thiên”...
- GS ĐVN, một người bạn, một người anh gần gũi hòa đồng:
GS cởi mở, gần gũi, bình đẳng trong sinh hoạt:
Ăn tập thể - “lính tráng có suất” : Không cho nhân viên cấp dưỡng ưu tiên thức ăn cho mình
Ở đây ta học được GS tính 3 cùng: Cùng ăn, cùng ở, cùng làm với đồng nghiệp
- Tạo môi trường làm việc thoải mái, không quan cách:
GS Không cho học trò , đồng nghiệp gọi mình là” thày”
Hồi mới về BM: tôi thấy thày Thế - cô Tâm, gọi GS là anh, tôi hoảng quá, hỏi ra mới biết là thày Ngữ bắt xưng hô như thế, vì…để gần gũi, thân mật, dễ trao đổi về chuyên môn và tâm tư, và để cho học trò sẵn sàng bộc lộ cái dốt của mình để Thày sửa ...
- GS là một người gần gũi, dí dỏm, pha trò,.
Một buổi sáng Bộ môn đang họp ở nơi sơ tán, đang lúc đói quá một bác thổ dân bán bánh sắn đi ngang, thày cho gọi và mua cho mỗi người 2 cái. Mọi người ăn hết bay trừ PGS Tâm mới ăn hết 1 cái. Thày Ngữ mời cô Tâm ăn tiếp.
Thày Ngữ vừa dứt lời thì thày Phạm Hoàng Thế nói ngay: .“ chị Tâm người to nhưng bụng bé”,
Thày Thế vừa dứt lời thì GS cầm chiếc bánh của PGS Tâm đặt vào chố thày Thế và nói: “ cậu ăn đi cho đối xứng” ….(ý là “ Cậu bé nhưng bụng to”)
- Tác phong bình dân, lấy hệu quả làm trọng, tôn trọng cá tính, sở thích các nhân
Một thí dụ:
GS Ngữ nêu nguyên tắc: ai hút thuốc lá thi cứ tự nhiên, nhưng xin mời xuống sân trường hút.
GS Đỗ Dương Thái: “Vâng, vậy xin phép anh cho tôi ở sân trường cả ngày ạ” (GS Đỗ DươngThái thường hút hết điếu nọ làm mồi sang điếu kia).
Vụ này GS Ngữ đành “thua” GS Thái vì tôn trọng cá tính/ sở thích của GS Thái).
- GS ĐVN một người rất thực tiễn, không hình thức
Một tỉnh nọ xin đổi ô tô sang đẹp hơn lấy chiệc com măng ca tàng tàng của thày…Thày từ chối vì ô tô của thày là để đi nông thôn chủ yếu leo rừng núi, vì hồi đó GS tập trung chủ yếu cho Chương trình Tiêu diệt bệnh sốt rét.
Phấn 8:
Khen thưởng :
Suốt đời lao động khoa học không mệt mỏi với nhiều công trình NC nổi tiếng rất hiệu quả, tận tụy với Nước, với Dân, chiến đấu hy sinh quên mình…GS đã được Nhà Nước tặng thưởng rất nhiều phần thưởng cao quý, Huân/ huy chương, danh hiệu. Tiêu biểu là:
- Hai huân chương kháng chiến
- Anh hùng liệt sỹ
- Giảỉ thưởng HỒ CHÍ MINH về khoa học lần thứ nhất
Phần 9:
NHỮNG BÀI HỌC CHÍNH TỪ CUỘC ĐỜI LAO ĐỘNG & HOẠT ĐỘNG KHOA HỌC CỦA GS ĐẶNG VĂN NGỮ
Năm 1973 GS Đỗ Dương Thái & GS Vũ Phong trao đổi với nhau tại Bộ môn KST ĐHYHN về việc tổ chức cuộc họp/ gặp mặt để tưởng nhớ GS Đặng Văn Ngữ. Tôi được gọi vào làm thư ký. Hai nhà đồng sáng lập Hội nghị KST YH nêu 3 Mục đích của Hội họp, gặp măt / họp/ Hội nghị này là
(1) Kỷ niệm ngày hy sinh của Anh hùng LS Đặng Văn Ngữ, qua đó trao đổi nêu những điều học tập từ tấm gương của GS( giờ gọi là Bài học từ GS ĐVN)
(2) Trao đổi về Khoa học
(3) Trao đổi chia sẻ giữa các Trường về đào tạo và nghiên cứu KST
( Hội nghị Khoa học và Đào tạo KST)
Tôi xin phép nói rất tóm tắt về một trong các Mục đích chính của Hội nghị(tôi nghĩ những người làm KST Y học đã tự mình rút ra bài học và đã làm theo GS Đặng Văn Ngữ ít nhiều…..)
Ở trên tôi đã nêu vài cụ thể về học tập gì ở GS ĐVN qua các nội dung trình bày, theo tôi có thể cô đọng về những bài học lớn có thể học tập và quan trọng là làm theo GS ĐVN là:
1. Khi làm nhiệm vụ Khoa học:
Đề tài nghiên cứu có thể nhiều hay ít, có thể to hay nhỏ, vì còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng đã làm nghiên cứu chúng ta đều học được từ Nhà khoa học Đặng Văn Ngữ là: Say xưa nghiên cứu, suy nghĩ kỹ, cẩn thận, Nghiêm túc thực nghiệm, kiểm nghiệm, tỷ mỷ; sáng tạo; trung thực, khách quan. Nhìn vào thực trạng hiện nay, cho phép tôi đươc nhấn mạnh lại 2 cụm từ khóa là: Tính trung thực & tính khách quan trong khoa học.
2. Khi làm nhiệm vụ giáo viên: Chúng ta học được ở thày giáo Đặng Văn Ngữ: trước hết chuyên môn phải vững / thật vững; tính sư phạm/ mô phạm / thị phạm phải cao. Thày ra thày
3. Khi làm nhiệm vụ chữa bệnh cho người nhiễm, người bị bệnh KST- đa số trong họ là những người yếm thế, người nghèo khó: Chúng ta học được ở thày thuốc Đặng Văn Ngữ: tính nhân ái và tính nhân văn
Phần 10
GS Đặng Văn Ngữ- một chiến binh áo trắng thực thụ:
(1) Từ bỏ nơi đủ điều kiện nghiên cứu phát minh, vật chất đủ đầy, gian nan tìm đường về nước tham gia cuộc kháng chiến vĩ đại, tôi nghĩ GS biết gian khổ, nguy hiểm như thế nào, dũng cảm về nước, nhưng không về Hà Nội, không về Huế mà về vùng kháng chiến.
(2) Đi “ B” công tác năm 1967:
Ngay khi xây dựng và tổ chức triển khai Kế hoạch Tiêu diệt bệnh sốt rét ở miền Bắc nước ta, ngay trong thời Hòa bình - chưa có chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, kết quả rất khả quan, bằng sự hiểu biết sâu sắc và thực tế của mình, GS đã nói trong nội Bộ mộ môn chúng tôi rằng: Loại trừ một bệnh nào đó ra khỏi đời sống cộng đồng là một việc rất khó nếu không có vaccine. GS lấy thí dụ về bệnh đậu mùa, bệnh bại liệt. Bây giờ chiến tranh lan rộng và ác liệt, phòng chống sốt rét càng khó khăn gấp bội
Ấp ủ có thêm giải pháp miễm dịch từ lâu lại thôi thúc GS.
Đây là chuyến đi thực hiện nghiên cứu mà GS đã manh nha từ lâu, đã xây dựng về giả thuyết nghiên cứu, đã đọc và suy nghĩ rất kỹ, đã qua vài đợt nghiên cứu thăm dò, tôi nhớ là hai lần vì mỗi lần đi công tác lâu lâu, GS đều họp Bộ môn dù ở nơi sơ tán. Nghiên cứu thăm dò đã thực hiện tại Quảng Binh và Vĩnh Linh. Trong thư gửi cho con gái sau mỗi chuyến đi nghiên cứu thăm dò này, GS có nhắc tới những trận bom đạn ác liệt của Mỹ và cũng có lời tỏ ra hài lòng một phần về kết quả nghiên cứu ban đầu, nên GS tin tưởng và quyết tâm tiếp tục phát triển.
Khi dự định chọn địa điểm (x) - nơi GS tin rằng cơ hội tìm thấy nhiều vật liệu chính cho nghiên cứu sẽ lớn hơn, nghiên cứu về vấn đề (y) đều là bí mật, ( tương đối),
Về địa điểm nghiên cứu đã được nhiều cấp, nhiều người( kể cả Trung ương, Chính phủ) cảnh báo về mức độ ác liệt của chiến tranh tại đây. GS biết rõ điều nguy hiểm - rủi do đó nhưng chấp nhận, và xin đi bằng được vì sự tin tưởng vào chuyên môn, sự nóng lòng tìm giải pháp hữu hiệu phòng chống bệnh sốt rét đang hàng ngày đang cướp đi bao sinh mệnh người lính và đồng bào, vi sự dũng cảm phi thường và vì… TRÍ LỚN.
Trong chuyên đi công tác nghiên cứu định mệnh này: vì bom đạn quân thù: tiếc thay…, trí lớn… chưa thành…!
Nhà khoa học lớn - Người chiến binh áo trắng kiên cường ngã xuống LÚC: đang làm nghiên cứu, TẠI: labo dã chiến, GIỮA: chiến trường ác liệt, TRÊN: mảnh đất quê nhà… SAU: mấy mươi năm xa cách! …
Lời kết
“ Lá đã rụng về cội” trên nửa thế kỷ nay,…. Nhưng hình ảnh về cuộc đời TRONG SÁNG – THANH BẠCH, SỰ NGHIỆP VẺ VANG với những CỐNG HIẾN ĐỒ SỘ & GIÁ TRỊ VỀ KHOA HỌC & THỰC TIỄN, những TRI THƯC SÂU RỘNG và NHÂN CÁCH LỚN của GS Đặng Văn Ngữ đã… và vẫn đang ảnh hưởng rất tích cực cho đến tận… ngày nay và sẽ trường tồn… mãi mãi..
PGS.TS Phạm Văn Thân
(Nguyên Trưởng BM KST ĐHY HN)