Ðề phòng tử vong do sốt rét ác tính ở thai phụ  12/3/2014 3:06:33 PM

Sau thời gian phòng chống tích cực, tình hình sốt rét tại nước ta đã giảm xuống tốt ở nhiều địa phương.

Sau thời gian phòng chống tích cực, tình hình sốt rét tại nước ta đã giảm xuống tốt ở nhiều địa phương. Tuy vậy, hiện nay, sốt rét đang có xu hướng phát triển và quay trở lại tại một số nơi. Nếu phụ nữ có thai mắc sốt rét rất dễ có nguy cơ bị sốt rét ác tính dẫn đến tử vong. Cần quan tâm đến đối tượng này để phát hiện, xử trí, điều trị phù hợp nhằm hạn chế tử vong ở các bà mẹ, kể cả thai nhi.

Đặc điểm sốt rét ác tính ở  thai phụ

Trong các vùng sốt rét lưu hành, nếu phụ nữ mang thai mắc sốt rét rất dễ có nguy cơ bị sốt rét ác tính gây sảy thai, thai chết trong bụng mẹ, đẻ non, trẻ sơ sinh suy dinh dưỡng nếu sống sau khi đẻ non và điều quan trong nhất là người mẹ có thể tử vong. Ở vùng sốt rét lưu hành nặng, phụ nữ mang thai vào quý 1 và quý 2 của thai kỳ sẽ có tỷ lệ bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét nhiều hơn các phụ nữ khác cùng sống tại địa phương và mật độ của ký sinh trùng sốt rét ở nhau thai cũng thường tập trung nhiều hơn ở máu ngoại vi. Bệnh cảnh lâm sàng chuyển biến nặng; hay bị thiếu máu, hạ đường huyết, phù phổi cấp và dễ dẫn đến sốt rét ác tính gây hậu quả tử vong nếu không được phát hiện, xử trí kịp thời. Thực tế, các nhà khoa học đã khẳng định tỷ lệ chuyển đổi từ sốt rét sang sốt rét ác tính ở phụ nữ mang thai mắc sốt rét thường cao hơn so với các phụ nữ mắc sốt rét nhưng không mang thai. Điều này là sự cảnh báo để chủ động phòng ngừa những trường hợp tử vong do sốt rét ác tính ở phụ nữ mang thai ở các cơ sở.


Phụ nữ mang thai ở vùng sốt rét dễ có nguy cơ mắc sốt rét ác tính (ảnh chỉ mang tính minh họa).

Hạ đường huyết là biến chứng khá phổ biến ở phụ nữ mang thai mắc sốt rét ác tính thể não và có thể gặp với tỷ lệ 50% các trường hợp bệnh nhân được điều trị bằng thuốc đặc hiệu quinine, có khi xuất hiện ngay trong lần sử dụng liều quinine đầu tiên bằng đường tĩnh mạch. Trong thời kỳ thai nghén, tế bào của tụy tạng thường tăng, đáp ứng đối với những tác nhân kích thích tiết nội tiết tố insuline như thuốc quinine. Biến chứng hạ đường huyết thường khó phát hiện trên lâm sàng, đôi khi có kèm theo dấu hiệu động thai, suy thai với tim thai đập chậm và yếu hoặc nhiễm toan lactic ở người mẹ. Thực tế ghi nhận phụ nữ mang thai bị mắc sốt rét trong quý 2 và quý 3 của thai kỳ được điều trị bằng thuốc quinine cũng có thể bị hạ đường huyết với các triệu chứng như chịu nhịn đói kém, hay vã nhiều mồ hôi, thỉnh thoảng bất tỉnh... vì vậy, cần được phân biệt với các triệu chứng của sốt rét ác tính thể não.

Phù phổi cấp là biến chứng trầm trọng có khả năng xảy ra ở những phụ nữ mang thai bị sốt rét ác tính. Biến chứng này có liên quan đến việc truyền dịch không được giám sát chặt chẽ về áp lực tĩnh mạch trung ương và thường xảy ra ngay sau khi phụ nữ sinh con do đẻ non. Trên lâm sàng, cần lưu ý đến các trường hợp đã được cảnh báo.

Cơn co thắt tử cung cũng thường xảy ra khi phụ nữ mang thai bị mắc sốt rét ác tính nhưng chưa có tính miễn dịch đối với bệnh sốt rét. Cơn sốt càng cao thì cơn co thắt tử cung càng mạnh và nhanh dẫn đến tình trạng đe dọa suy thai, sảy thai hoặc đẻ non. Đối với các trường hợp phụ nữ mang thai mắc sốt rét đã được chữa trị khỏi bệnh, không đẻ non thì sự phát triển của thai nhi cũng bị chậm lại một thời gian và trẻ sinh ra thường không đủ cân nặng. Ở các vùng sốt rét lưu hành, có một số trường hợp phụ nữ mang thai mắc sốt rét nhưng không có triệu chứng lâm sàng, trẻ được sinh ra thường suy dinh dưỡng có liên quan đến tình trạng nhiễm ký sinh trùng ở trong máu người mẹ.

Ngoài ra, phụ nữ mang thai mắc sốt rét hoặc bị sốt rét ác tính dễ bị bội nhiễm thêm các bệnh lý khác như viêm phổi, viêm màng não, nhiễm khuẩn đường tiết niệu khi được dẫn lưu nước tiểu...

Trong hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh sốt rét được Bộ Y tế ban hành đã có lưu ý một số biểu hiện thường gặp đối với sốt rét ác tính ở phụ nữ mang thai là: hạ đường huyết thường sau khi điều trị bằng thuốc quinine, thiếu máu, sảy thai, đẻ non, nhiễm trùng hậu sản sau khi sảy thai hoặc đẻ non. Vì vậy, cần quan tâm đến vấn đề này.

Điều trị sốt rét ác tính ở phụ nữ mang thai

Như trên đã nêu, phụ nữ mang thai bị sốt rét ác tính có thể dẫn đến tình trạng sẩy thai, đẻ non, thai chết lưu và tử vong. Vì vậy cần phải điều trị tích cực diệt ký sinh trùng sốt rét gây bệnh kết hợp với việc điều trị triệu chứng, biến chứng. Trong điều trị, chú ý điều trị đặc hiệu bằng thuốc sốt rét và điều trị hỗ trợ có hiệu quả theo quy định của hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh sốt rét của Bộ Y tế.

Ðề phòng tử vong do sốt rét ác tính ở thai phụ
Quinine dihydrochloride và artesunat tiêm phải có tại cơ sở y tế để xử trí khi cần thiết (ảnh minh họa).

Quinine dihydrochloride và artesunat tiêm phải có tại cơ sở y tế để xử trí khi cần thiết (ảnh minh họa).

Điều trị đặc hiệu: Cần sử dụng các loại thuốc có hiệu lực cao bằng thuốc tiêm, thuốc viên tùy theo thời gian phụ nữ mang thai của thai kỳ.

Nếu phụ nữ bị sốt rét ác tính mang thai trong 3 tháng đầu của thai kỳ, sử dụng thuốc quinine dihydrochloride tiêm với liều lượng 30mg/kg trọng lượng cơ thể mỗi ngày, dùng trong 7 ngày; kết hợp với clindamycine uống với liều lượng 15mg/kg trọng lượng cơ thể mỗi ngày, cũng dùng trong 7 ngày. Thuốc quinine dihydrochloride ống 500mg được pha trong dung dịch natri chlorure 0,9% hoặc glucose 5% để truyền tĩnh mạch; trước đó người bệnh chưa được điều trị bằng thuốc quinine ở tuyến dưới thì truyền tĩnh mạch với liều lượng 20mg/kg trọng lượng cơ thể ở 8 giờ đầu, sau đó dùng 10mg/kg trọng lượng cơ thể cứ mỗi 8 giờ một lần cho đến khi người bệnh uống được thì chuyển sang dùng quinine sulfate với liều 30mg/kg trọng lượng cơ thể chia làm 3 lần trong ngày cho đủ liều điều trị 7 ngày. Chú ý khi người bệnh uống được phải điều trị kết hợp thêm thuốc clindamycine viên với liều lượng 15mg/kg trọng lượng cơ thể/24 giờ chia làm 2 lần, cũng dùng trong 7 ngày cho đủ liều; viên thuốc clindamycine thường được sản xuất dưới hai loại hàm lượng là 150mg và 300mg.

Nếu phụ nữ bị sốt rét ác tính mang thai trên 3 tháng của thai kỳ, sử dụng thuốc artesunat tiêm như những trường hợp bệnh nhân khác bị sốt rét ác tính. Thuốc artesunat tiêm có hàm lượng 60mg dạng bột được đóng trong lọ kèm theo ống 1ml natri bicarbonate 5% dùng làm dung môi hòa tan. Pha 1ml natri bicarbonate 5% vào lọ có chứa 60mg bột artesunat, lắc thật kỹ cho bột artesunat tan hoàn toàn để trở thành dung dịch trong suốt; sau đó pha thêm 5ml natri chlorure 0,9% để tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp thịt nếu không tiêm được tĩnh mạch. Khi bệnh nhân đã tỉnh có thể uống được, chuyển sang uống thuốc dihydroartemisinin-piperaquin có tên biệt dược là arterakine, CV artecan liền trong 3 ngày tiếp theo. Artesunat tiêm sử dụng liều lượng 2,4mg/kg trọng lượng cơ thể trong giờ đầu; tiêm nhắc lại 1,2mg/kg trọng lượng cơ thể vào giờ thứ 12 của ngày đầu. Sau đó mỗi ngày tiêm một liều 1,2mg/kg trọng lượng cơ thể cho đến khi bệnh nhân tỉnh, có thể uống được thì chuyển sang uống thuốc dihydroartemisinin-piperaquin với liều lượng 2 viên trong giờ đầu, 2 viên sau 8 giờ; ngày thứ 2 và ngày thứ 3 uống mỗi ngày 2 viên cho đủ liều 3 ngày. Vấn đề cần lưu ý là không được dùng artesunat tiêm cho phụ nữ mang thai bị sốt rét ác tính trong 3 tháng đầu của thai kỳ trừ trường hợp tại cơ sở y tế không có thuốc quinine tiêm thì phải sử dụng. Trường hợp không tiêm artesunat được bằng đường tĩnh mạch, có thể tiêm bắp thịt bằng cách chỉ cần pha bột thuốc với 1ml natri bicarbonat 5%, lắc kỹ cho bột artesunat tan hoàn toàn rồi tiêm bắp, không cần pha thêm 5ml natri chlorure 0,9%.

Điều trị hỗ trợ: Được thực hiện như các trường hợp điều trị sốt rét ác tính cho những bệnh nhân khác như: hạ sốt, cắt cơn co giật; chống sốc, suy hô hấp, thiếu máu do huyết tán hoặc xuất huyết, hạ đường huyết, tiểu huyết cầu tố; điều chỉnh rối loạn nước, chất điện giải, kiềm toan và chăm sóc, nuôi dưỡng. Tuy vậy cần chú ý việc xử trí có hiệu quả biến chứng hạ đường huyết, thiếu máu; điều chỉnh tình trạng mất nước, rối loạn chất điện giải và kiềm toan. Một điều phải lưu ý là phụ nữ có thai mắc sốt rét ác tính thường hay bị hạ đường huyết nhất là khi điều trị bằng thuốc quinine, vì vậy nên truyền thêm dung dịch glucose 10% và theo chỉ số glucose của máu.

Khuyến cáo

Hiện nay, bệnh sốt rét tại nước ta đang có nguy cơ quay trở lại và bùng phát ở một số địa phương, kèm theo đó là tình trạng ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum gây sốt rét ác tính đã kháng lại với thuốc sốt rét đang được sử dụng làm khó khăn cho việc xử trí điều trị sốt rét có hiệu quả và có thể dẫn đến tử vong. Nên lưu ý ở các vùng sốt rét lưu hành, khi phụ nữ mang thai mắc sốt rét thì tỷ lệ chuyển đổi thành sốt rét ác tính thường cao hơn những phụ nữ mắc sốt rét không mang thai. Vì vậy, cần cảnh báo sớm vấn đề này để chủ động đề phòng các trường hợp tử vong do sốt rét ác tính ở phụ nữ mang thai kể cả thai nhi trước khi quá muộn.



Nguồn : suckhoedoisong.vn

TTƯT.BS. NGUYỄN VÕ HINH

Thống kê truy cập

Đang online: 383

Số lượt truy cập: 21,367,832