Nghiên cứu sinh Huỳnh Hồng Quang bảo vệ thành công luận án tiến sĩ  7/4/2014 11:36:58 AM

Ngày 23/6/2014, tại Viện Sốt rét - Ký sinh trùng - Côn trùng Trung ương, Nghiên cứu sinh Huỳnh Hồng Quang đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ cấp Viện chuyên ngành Ký sinh trùng và Côn trùng Y học, mã số 62 72 01 16 với đề tài “Đánh giá hiệu lực dihydroartemisinine – piperaquine điều trị sốt rét do Plasmodium falciparum chưa biến chứng và chloroquine điều trị Plasmodium vivax tại một số điểm miền Trung-Tây Nguyên (2011-2012)”.


Nghiên cứu sinh Huỳnh Hồng Quang bảo vệ luận án tiến sĩ.

Tên đề tài luận án“Đánh giá hiệu lực dihydroartemisinine – piperaquine điều trị sốt rét do Plasmodium falciparum chưa biến chứng và chloroquine điều trị Plasmodium vivax tại một số điểm miền Trung-Tây Nguyên (2011-2012).

Chuyên ngành:                    Ký sinh trùng và Côn trùng Y học

Mã số:                                   62 72 01 16

Nghiên cứu sinh:                 Huỳnh Hồng Quang

Cán bộ hướng dẫn khoa học:

1.     PGS.TS. Triệu Nguyên Trung             2. PGS. TS. Phạm Văn Thân

Cơ sở đào tạo: Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương

 Mục tiêu nghiên cứu

-      Đánh giá hiệu lực thuốc dihydroartemisinin-piperaquine trong điều trị bệnh nhân sốt rét do Plasmodium falciparum chưa biến chứng;

-         Đánh giá hiệu lực thuốc chloroquin phosphate trong điều trị bệnh nhân sốt rét do Plasmodium vivax.

Đối tượng nghiên cứu

-         Tất cả bệnh nhân sốt rét do Plasmodium falciparum chưa biến chứng đủ tiêu chuẩn lựa chọn nghiên cứu.

-    Các bệnh nhân sốt rét do Plasmodium vivax đủ tiêu chuẩn lựa chọn nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng không ngẫu nhiên, không đối chứng. Theo thử nghiệm in vivo  theo dõi 28 ngày (đối với nhóm CQ) và 42 ngày (đối với nhóm dùng DHA-PPQ).

Kết quả nghiên cứu của luận án

  1. Hiệu lực thuốc DHA-PPQ (Arterakine) đối với sốt rét do Plasmodium falciparum

-    Đáp ứng lâm sàng và ký sinh trùng đầy đủ tại 3 điểm theo dõi từ 50-100%, trong đó tỷ lệ chữa khỏi 100% ở Quảng Trị và Ninh Thuận. Riêng điểm Gia Lai, tỷ lệ chữa khỏi sau hiệu chỉnh PCR là 95%, thất bại điều trị sớm là 3,71% và thất bại lâm sàng muộn 1,29%;

-    Diễn biến và thời gian làm sạch KST nhanh (2 ngày đầu), ngoại trừ ở điểm Gia Lai vẫn còn tồn tại thể vô tính vào ngày D3 (17%). Thời gian cắt sốt song song với diễn biến làm sạch KST, riêng điểm Gia Lai có kéo dài hơn 2 ngày ở một số ca còn tồn tại KST sau điều trị;

-    Sự tồn tại thể vô tính của Plasmodium falciparum vào ngày D3 hay ≥ 72 giờ ở Gia Lai như một chỉ điểm lâm sàng gián tiếp chỉ ra kháng thuốc (theo định nghĩa WHO, 2012);

-     Lách có vai trò trong việc làm sạch KST khi điều trị rất rõ ràng, vì thế cần thiết bổ sung điều này vào “tiêu chuẩn loại trừ” trong phần đề cương đánh giá hiệu lực thuốc đối với cả Plasmodium falciparum Plasmodium vivax  trên thử nghiệm in vivo.

  1. Hiệu lực thuốc chloroquine trong điều trị sốt rét Plasmodium vivax.

-         Hiệu lực chloroquin vẫn còn bền vững, tỷ lệ chữa khỏi sốt rét Plasmodium vivax đều 100% tại 3 điểm;

-         Thời gian làm sạch KST và thời gian cắt sốt do thuốc CQ rất nhanh (<2 ngày);

-         Cả DHA-PPQ và CQ dung nạp tốt khi điều trị bệnh nhân sốt rét Plasmodium falciparum Plasmodium vivax.

  


Nghiên cứu sinh Huỳnh Hồng Quang chụp ảnh lưu niệm cùng Hội đồng chấm luận án tiến sĩ.

Thống kê truy cập

Đang online: 10

Số lượt truy cập: 21,523,877